Ai kéo ai lên?
“Hàng trăm trường ĐH trong nước hoạt động dưới sự kiểm soát theo chiều “dọc” và “ngang” với 13 đầu mối là các bộ chủ quản. Có thể hình dung điều đó như cảnh đi tham quan du lịch theo đoàn khi muốn tồn tại, không bị lạc nhóm trên đất khách quê người, nhất thiết bạn phải răm rắp tuân thủ mệnh lệnh của người cầm cờ đi trước. Mối quan hệ phụ thuộc đó có hai mặt của nó.
Một mặt chúng lôi kéo những người đã biết đi theo người dẫn đường. Song mặt khác, nó buộc người hướng dẫn phải chú ý đến cả nhóm, gắn ý muốn của mình v nhóm, giữ cho được sự gắn kết dù chỉ là vẻ ngoài của sự nhất trí.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường, sự so sánh trên tuy còn khập khiễng, nhưng có phần đúng khi “người cầm cờ” phải tính đúng lộ trình, tính đúng khoản tiền phân bổ giữa các thành viên, tính làm sao để tất cả đều… vui!”.
PGS-TS Thái Bá Cần thẳng thắn nói tiếp: “Chúng ta phải đối mặt và phải chấp nhận thực tế giàu – nghèo tồn tại trong xã hội. Có người chở con đi học bằng xe hơi, nhưng có người vẫn cứ xe đạp cọc cạch “ngày hai buổi đến trường”, rồi thì người được phép ăn ngon, người chỉ có rau và rau… Chúng ta không thể cào bằng, không thể ai cũng phải nghèo như nhau. Như thế là không được”. Từ cách nhìn vấn đề khá “thoáng” này, ông đề cập đến vai trò của “người cầm cờ” vạch đường là Bộ GD-ĐT khi điều tiết “sự công bằng”, nhất là phân bổ ngân sách GD cho các trường.
Theo ông Cần, công bằng GD là công bằng về cơ hội khi sử dụng kinh phí nhà nước cấp chung cho mọi người. Muốn làm được điều đó có hai sự lựa chọn là người giàu kéo người nghèo lên hoặc ngược lại. Mà nghèo thì đâu có sức để kéo đẩy. Điều ông Cần lý giải cũng tương tự như cách thức Trung Quốc tiến hành cuộc cải cách kinh tế khi tạo dựng một tầng lớp trung lưu khá giả – làm đầu tàu kéo các toa tàu theo sau mình.
Nhưng cách thức chúng ta chọn đầu tư “đầu tàu” ra sao, đầu tư cho trường “giàu” trước hay trường “nghèo” trước? Hay là đầu tư cho cả hai để “huề cả làng”? Theo ông Cần, không thể đồng đều nâng cấp tất cả các trường, phải đầu tư có chọn lọc vì ngân sách không kham nổi. Ông nói: “Toàn bộ ngân sách dành cho các trường trọng điểm là sai vì đó là tiền đóng góp của toàn dân. Số tiền đó nên dành cho các cơ sở đào tạo chất lượng trung bình , giá rẻ, cho số đông. Còn lại, ai muốn dịch vụ tốt thì phải thêm tiền vào. Làm thế số đông – những người nghèo - sẽ được hưởng lợi”.
Một dẫn chứng ông Cần đưa ra minh họa cho “tính bất công” trong phân bổ ngân sách – và cũng được PGS-TS Huỳnh Thanh Hùng, Hiệu phó Trường ĐH Nông Lâm TPHCM chia sẻ – là tại sao nhà nước phải bỏ tiền ra cho các “chương trình tiên tiến” khi mà người ta “bê” nguyên xi từ nước ngoài về để giảng dạy? Và liệu cái “tiên tiến” kia có hợp với môi trường giáo dục ở VN không?
Như thế câu hỏi: Ai bỏ tiền, ai đào tạo, ai sử dụng vẫn còn treo lơ lửng. Đó cũng là điều cần làm rõ trong những quy định cụ thể cho mô hình tự chủ.
Bài toán giảng viên
Có thể hiểu nỗi khổ tâm và mong ước của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khi ông đặt ra chỉ tiêu từ nay đến năm 2020 phải đào tạo 20.000 TS để không còn cảnh “cử nhân dạy cử nhân”. Nhưng làm sao số lượng đi kèm chất lượng, để bằng ra bằng? Đây là một câu hỏi chỉ thực tiễn mới cho lời đáp.
Tại Trường ĐH Nông Lâm TPHCM, sau khi cho biết trường mới chỉ phấn đấu đến năm 2010 có số GV là TS đạt mức 25%, PGS-TS Huỳnh Thanh Hùng băn khoăn: “Rất khó để đạt chỉ tiêu được giao”. Ông nói có “độ vênh” trong chất lượng đào tạo sau ĐH ở các cơ sở khác nhau: Có em thi thạc sĩ tại Trường Nông Lâm 3 lần thì rớt cả 3. Chỉ sau khi sang cơ sở khác thì mới… lấy được bằng và còn khoe sắp “liên thông” xong cả bằng TS.
Ông Hùng còn nói, có những luận án TS hết sức “ngộ” mà không hiểu sao vẫn được chấp nhận như kiểu luận án nghiên cứu về… sử dụng nước tắm cho quân đội. Tất nhiên đây cũng chỉ là chuyện “con sâu làm rầu nồi canh”, nhưng điều đó cũng cho thấy công tác kiểm định chất lượng ĐH của chúng ta vẫn còn nhiều bất cập, còn chưa có tiêu chí và chuẩn đánh giá thống nhất.
Bà Bùi Trân Phượng, Hiệu trưởng Trường ĐH Hoa Sen phát biểu: “Kiểm định chất lượng là đúng. Nhưng ai kiểm định? Hiện giờ thước đo của chúng ta đang bập bênh, thiếu sức thuyết phục”. Theo bà, nên đánh giá chất lượng một trường ở “đầu ra” khi SV tốt nghiệp có thể “làm ở đâu cũng được”, cả ở trong nước lẫn quốc tế.
Trước sự “khan hiếm” đội ngũ GV chất lượng cao ở các trường ngoài công lập, bà Phượng nêu ý kiến: Nếu thiếu thì có thể tuyển GV trên toàn cầu, thu hút chất xám từ nước ngoài bằng con đường hợp tác quốc tế. Đây cũng là cách làm của Trường Hoa Sen và đã chứng tỏ hiệu quả qua con số 95% SV tốt nghiệp của trường được tuyển dụng theo đúng ngành nghề đào tạo.
“Theo tôi, lượng GV cơ hữu ở trường ngoài công lập tối thiểu chiếm 40%. Và tỷ lệ GV phải là chiến lược của mỗi trường, do trường tự quyết, bộ không nên áp đặt. Bộ nên kiểm tra đầu ra, xem xét vi phạm chứ không quản lý thay trường” - bà Phương đúc kết.
Rõ ràng, trong điều kiện còn nhiều “điểm mờ” về chất lượng đội ngũ GV, còn chưa rạch ròi giữa giảng dạy và nghiên cứu – một tiêu chí đánh giá có được “đứng lớp” hay không, chúng ta cần trao quyền tự chủ lớn hơn về nhân sự cho các trường. Chẳng hạn có thể mạnh dạn đưa các chuyên gia nước ngoài vào hội đồng tuyển chọn các phương án phát triển, kể cả khâu biên chế giảng dạy để cách đánh giá khách quan hơn.
Ví dụ có thể đào tạo TS dưới sự hướng dẫn của hai GS, một của nước ngoài và một của VN để SV có thể nhận học vị từ cả 2 trường. Cơ hội như vậy là một dịp để chúng ta mở cửa ra những trường ĐH danh tiếng trên thế giới, đồng thời bảo đảm tính nghiêm túc và chất lượng khoa học của công trình.
school@net (Theo http://www.sggp.org.vn/giaoduc/2007/11/130757/)
|