Thiếu thợ: hiện chỉ có khoảng hơn 20% lao động được qua đào tạo. Thiếu thầy: chỉ số SVĐH-CĐ trên 1 vạn dân của ta thuộc tốp thấp trong khu vực Đông Nam Á (135 SV trên 1 vạn dân vào năm 2000, năm 2007 khoảng 165).
Và hơn nữa, thiếu cả thầy của thầy: tỉ lệ số SV trên giảng viên còn cao, nhất là khối ngành kinh tế, luật. Như vậy vấn đề nằm ở chỗ mất cân đối trong các bậc đào tạo chứ không phải số lượng đào tạo.
Thật ra, sức ép về số lượng hiện nay rất lớn. Kinh nghiệm của những con rồng châu Á như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore cho thấy phải đạt chỉ số SV trên 1 vạn dân từ 300 - 400 trở lên mới đủ nguồn nhân lực trình độ cao tạo bước nhảy vọt trong phát triển kinh tế xã hội.
Những chỉ số giáo dục ĐH quan trọng cho mốc 2010 là đạt 200 SV trên 1 vạn dân; có khoảng 40% SV thuộc các trường ngoài công lập, 40% giảng viên có trình độ thạc sĩ và 25% có trình độ tiến sĩ; tỉ lệ lao động được qua đào tạo đạt 40%, trong đó ĐH-CĐ là 6% (vẫn còn là một chỉ số khá thấp).
Thử làm một phân tích nhỏ: để đạt chỉ số 200 SV trên 1 vạn dân vào năm 2010, trong vòng năm năm, số SVĐH-CĐ sẽ phải tăng thêm khoảng 500.000, đạt 1,8 triệu. Với tốc độ tăng qui mô tuyển sinh hằng năm khoảng 5-10%, những con số này hoàn toàn khả thi.
Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng, hàng loạt vấn đề phải được giải quyết đồng bộ: phòng học, phòng thí nghiệm, đội ngũ giảng viên, ký túc xá... phải được gia tăng tương ứng.
Trong chiến lược đào tạo thầy của thầy, đứng về mặt số lượng, đề án 20.000 tiến sĩ đến năm 2020 cũng hoàn toàn khả thi, nếu căn cứ trên năng lực đào tạo sau ĐH hiện nay của các cơ sở đào tạo trong nước, cộng thêm các chương trình đào tạo tiến sĩ vừa được ký kết với nhiều nước.
Đó là chưa kể chủ trương chỉ xét tuyển, bỏ kỳ thi tuyển sinh nghiên cứu sinh đầu vào sẽ có thể gia tăng thêm số lượng nghiên cứu sinh tiến sĩ. Vấn đề còn lại chỉ là chất lượng đạt được sẽ như thế nào.
Yêu cầu về chất lượng
Ai cũng hiểu là phải nhanh chóng giải quyết bài toán chất lượng - số lượng trong giáo dục ĐH một cách đồng bộ và bền vững chứ không chỉ mang tính chất đối phó. Điều mà nhiều người bức xúc đó là cái cảm giác chúng ta đang loay hoay mò tìm hướng giải, chưa thấy được lộ trình, bước đi như thế nào để hi vọng thoát được tình trạng hiện nay.
Không thiếu những lời kêu ca về chất lượng SV tốt nghiệp từ các trường ĐH-CĐ: kiến thức nặng về lý thuyết, kém thực hành, không năng động, thiếu khả năng làm việc theo nhóm và thuyết trình trước đám đông...
Ngay như ngành công nghệ thông tin, nhiều lúc có cảm giác là thế mạnh của nhiều trường ĐH Việt Nam với chất lượng SV đầu vào thuộc loại "chiếu trên", nhưng rồi số SV tốt nghiệp đạt chuẩn nghề nghiệp quốc tế vẫn chưa phải ở tỉ lệ cao (tất nhiên vẫn có một số SV rất xuất sắc).
Về mặt tổng thể, tình trạng vừa nêu không còn là "lỗi cá thể" mà đã trở thành "lỗi hệ thống". Chỉ qua một kỳ thi tương đối nghiêm túc, số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông hằng năm thường phải trên 90%, nay chỉ còn 66%.
Không đổ lỗi hoàn toàn, nhưng chắc chắn một phần nguyên nhân là tiêu cực trong thi cử và chạy theo thành tích ảo. Xem ra học thực chất, dạy thực chất thật khó lắm thay, trừ phi chúng ta cắn răng chấp nhận những con số gây sốc cho dư luận để lành mạnh hóa một môi trường vốn được coi là chuẩn mực của phát triển kinh tế xã hội: môi trường giáo dục.
Giải pháp nào?
Ở góc độ quản lý đã xuất hiện những "công cụ kỹ thuật" giúp nêu được các nguyên tắc dung hòa sức ép của số lượng và yêu cầu của chất lượng: đó là vai trò của kiểm định chất lượng giáo dục. Các qui định về kiểm định chất lượng giáo dục trường ĐH-CĐ vừa được ban hành là những khuôn thước để có thể phát triển số lượng, nhưng phải ở mức độ đảm bảo được chất lượng.
Đây cũng là cách để các trường ĐH Việt Nam tiếp cận được trình độ khu vực và quốc tế. Nhìn từ một khía cạnh khác, cần phát triển nhiều loại hình đào tạo ĐH với chất lượng và bằng cấp tương đương nhau cho các đối tượng khác nhau, chứ không chỉ tập trung cho loại hình chính qui theo kiểu truyền thống tinh hoa.
Trong những năm sắp tới, loại hình đào tạo từ xa (bao gồm từ xa theo kiểu cũ và đào tạo qua mạng tin học viễn thông) sẽ là cơ hội học tập cho nhiều người, chiếm đến 60% số SV ĐH-CĐ vào năm 2020, đặc biệt là những ngành nghề không đòi hỏi đầu tư nhiều về trang thiết bị thực hành trong phòng thí nghiệm.
Bên cạnh đó, các qui định về liên thông giữa các bậc học và các loại hình học tập cần được nghiên cứu thấu đáo và sớm ban hành ở cấp độ quốc gia để giảm bớt áp lực về số lượng cho giáo dục ĐH.
Một giải pháp khác cũng cần được quan tâm đúng mức là tăng cường thời lượng thực hành, thực tập thực tế cho SV. Với khung chương trình đào tạo như hiện hành, phần thực hành, thực tập thường chỉ chiếm khoảng 15% khối lượng học tập.
Khó khăn hiện nay không chỉ ở chỗ phải sắp xếp lại chương trình đào tạo, mà còn là nguồn lực đầu tư trang thiết bị cho thực hành và có điều kiện để đẩy mạnh hơn việc đào tạo thực tập, thực tế.
Về việc này, một loạt các ký kết thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp và các tập đoàn kinh tế lớn là những tín hiệu rất đáng mừng, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa và huy động được nhiều nguồn lực đầu tư cho giáo dục, gắn bó được các trường ĐH với các doanh nghiệp.
school@net (Theo http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=107197&)
|