Người ta gặp nhau bên bờ sông, kẻ ngửa người đạp hai chân vào hai mái dầm, chèo con thuyền ngược dòng sông, người ở trên bờ lội xuống nước, lấy hai bàn tay chụm vào nhau vốc nước sông mới được pha chút ít phù sa của con lũ đầu mùa lên mặt. Người bên bờ nước hỏi người dưới thuyền:
- Con cháu của Hà Bá ơi! Ễnh ương đẻ cao lắm, năm nay liệu nước có to không? - Trứng cá còn non lắm. Năm nay hẳn nước muộn. Họ trả lời nhau chẳng ăn nhập vào câu hỏi. Người dưới sông, kẻ trên bờ quen biết nhau từ thời bãi làng mới nổi lên, vạn chài mới hình thành. Người kiếm con cá, con tôm dưới nước, kẻ vun trồng, đào bới, thu nhặt củ khoai, bắp ngô trên vạt đất phù sa, có quan hệ lâu đời. Và hàng năm cứ đến mùa lũ bắt đầu này, những người làm nghề ương cá bột từ Bắc Ninh, Bắc Giang xuống, từ Hà Đông, Hà Nam lên. Họ làm lều, làm lán, đào lò bên bờ sông, hạ hàng trăm chiếc vợt hứng cá bột từ thượng nguồn trôi về. Cuộc sống bên bờ sông nhộn nhịp, tấp nập hẳn lên. Những lò ương cá bột, đất được nện chặt để không bị ngấm nước, tròn to như những cái nong đại, mặt nước đầy những chú cá bột mới nở nhỏ li ti như đầu kim. Những bát cá mẫu với hàng nghìn cá trứng chạy vòng quanh trong lòng bát. Những khách hàng từ các nơi là những chàng trai, những cô gái với đôi thúng sơn đen, nhẵn bóng. Họ xúm xít quanh bát cá mẫu, nghe những ông già cầm que tăm gẩy gẩy những con cá dính vào đầu que, rồi giảng cho mọi người biết con nào là cá trôi, con nào là cá mè. Cái lũ đầu mùa này nhiều trôi hay nhiều mè. Những chàng, những nàng mua cá giống ra về gánh đôi thúng trên vai, luôn luôn phải lắc lư cho nước trong thúng nổi bọt để cá khỏi chết vì thiếu không khí. Từ sông Hồng này, cá giống được chia đi khắp các hồ ao ương lại trong đồng. Những ao cá bột này đã được tát cạn, phơi khô để bắt cho hết những con rô, con chuối kẻo chúng ăn hết cá con. Và khoảng ba, bốn mươi ngày sau, con cá trứng to bằng que đóm, bằng ngón tay, dài tám phân, mười phân. Các chàng, các nàng lại vợt cá lên bán cho những chủ ao, chủ hồ nuôi cá thịt. Những gánh cá, với những đôi thúng sơn đen, nhẵn bóng quen thuộc lại được dịp lắc lư trên vai các nàng, các chàng. Họ gánh cá đến cho một chủ hồ, chủ ao nào đó. Chủ, khách ngồi bên bờ ao chứng kiến các nàng đếm cá thả xuống ao. Mắt các cô hàng cá giống sắc như dao cau. Tay các cô thả cá xuống ao, mắt cô liếc ngang, liếc dọc, miệng đếm liến thoắng: "... Mười một, mười hai, mười ba, ... con mè hoa... hai ba, hai bốn... con này tốt, ba mốt, ba hai...". Họ vừa đếm vừa khen, cứ cóc nhảy như thế, ông chủ mua cá dù có tinh mắt đến đâu, cũng vẫn chịu thua. Cá đã thả xuống ao rồi, cả người thả cá lẫn người nhận cá cũng đều chỉ nhớ con cá cuối cùng là thứ mấy trăm con để tính tiền. Người ta bảo, nghề ương cá từ khi mua con cá bột ngoài sông về mười con, chết năm con, chỉ ăn nhau cách đếm để bù lại. Thôi thì có bị mang tiếng là "láu cá", cũng lờ đi. Có lẽ cái thời khoa học chăn thả con giống chưa hoàn hảo như bây giờ, nên tiếng "láu cá" còn vang mãi.
Đó là những câu chuyện về nghề ương cá bột của cái thời cách đây không lâu. Nó đã trở thành câu chuyện như thuở xưa, xa xôi chúng ta lắm lắm. Thôi hãy để cái chuyện xưa ấy, với những con người mang tiếng là "láu cá" ấy, vui với cây cỏ, trăng ngàn, trăng sông với những mùa cá bột thời mà mọi nguồn giống đều trông chờ vào thiên nhiên cung cấp.
Thanh Hào
Schoolnet
|