Vui vì bài báo này và những bài tương tự đăng tải gần đây trên báo chí đã gợi ý, đúng hơn là gián tiếp giúp tôi khẳng định thêm lời giải đáp cho một câu đố liên quan đến vai trò của giáo dục đào tạo đến tăng trưởng kinh tế và thu nhập mà chúng tôi đã phải đối mặt nhiều tháng nay.
Còn lo là vì nếu lời giải đáp này là sự thực thì có lẽ ngành giáo dục đào tạo cần phải lột xác hoàn toàn về chất lượng, trước khi nói đến việc Việt Nam có thể tăng trưởng cao và bền vững trong các thập kỷ sau hay không.
Tôi và GS-TS Eric Ramstetter, thuộc Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu Phát triển Đông Á (ICSEAD) của Nhật, đã sử dụng bộ số liệu của 61 tỉnh thành Việt Nam do Tổng cục Thống kê công bố để nghiên cứu tác động của một số yếu tố chính, trong đó có dân số, vốn nhân lực (human capital), đầu tư, thương mại, và đầu tư trực tiếp nước ngoài lên tăng trưởng GDP trên đầu người trong thời kỳ 1995-2003.
Kết quả của đề tài nghiên cứu này đã được chúng tôi báo cáo tại Đại hội quốc tế lần thứ 10 của Hội Kinh tế Đông Á (EAEA), tổ chức tại Bắc Kinh mới đây, ngày 18 và 19-11-2006 (bài này có thể xem tại http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006_e.html).
Một trong những kết quả chính mà chúng tôi tìm ra, với giả thiết rằng số liệu của Tổng cục Thống kê là đáng tin cậy, là biến số vốn nhân lực (trong nghiên cứu của chúng tôi được dùng thay bằng (i) tỷ lệ nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật; (ii) tỷ lệ nhân lực có trình độ giáo dục phổ thông cấp II hoặc cao hơn; và (iii) tỷ lệ nhân lực có trình độ giáo dục phổ thông cấp III hoặc cao hơn trong tổng lực lượng lao động năm 1996) lại có tác dụng tiêu cực và đáng kể về mặt thống kê đến tăng trưởng GDP/đầu người ở Việt Nam trong thời kỳ nói trên.
Nói cách khác, có xu hướng chung là tỉnh/thành phố nào càng giàu về vốn nhân lực (có một trong ba chỉ tiêu nói trên cao) thì tăng trưởng GDP/đầu người càng chậm. Kết luận này đúng với nhiều trường hợp có sử dụng những thuật toán khác nhau.
Đây có thể coi là một nghịch lý ở Việt Nam, vì thông thường trong kinh tế học phát triển, người ta luôn có xu hướng tìm ra tác động tích cực của vốn nhân lực lên tăng trưởng kinh tế và thu nhập ở nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, chúng tôi buộc phải bỏ ngỏ phần giải thích cho phát hiện nghịch lý này ở Việt Nam trong nghiên cứu nói trên của mình, và dừng lại ở việc đề xuất một số hướng nghiên cứu trong tương lai để tìm hiểu sâu thêm, và đúng hơn, về vai trò của vốn nhân lực lên phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Cá nhân tôi thì có nghĩ đến khả năng chất lượng giáo dục thấp kém là một trong những nguyên nhân đằng sau nghịch lý nói trên. Nhưng khả năng này sẽ bị gạt bỏ nếu chỉ có một số ít tỉnh thành, đặc biệt những tỉnh nghèo, là có vấn đề đáng lo ngại về chất lượng nguồn nhân lực (chất lượng không tương xứng với số lượng), và, do đó, không làm ảnh hưởng đến kết quả tính toán chung.
Nhưng sau khi đọc một loạt bài viết, và đặc biệt là bài viết nói trên của Tuổi Trẻ, về các vấn đề bức xúc trong ngành giáo dục, không chỉ có giáo dục phổ thông mà còn giáo dục hướng nghiệp và giáo dục bậc cao, và các bức xúc này không chỉ có ở các tỉnh nghèo mà còn ở phạm vi cả nước, tôi đã bị thuyết phục rằng tốc độ tăng trưởng vốn nhân lực (tăng trưởng về số lượng) ở Việt Nam đã và vẫn sẽ không đồng nghĩa với việc tăng chất lượng vốn nhân lực nói chung.
Đặt vấn đề này trong bối cảnh nghiên cứu trên của chúng tôi thì ta sẽ thấy một hậu quả rất nghiêm trọng của tình trạng chạy đua theo thành tích trong ngành giáo dục và đào tạo ở Việt Nam: trong cơ chế hiện tại, chúng ta càng đổ tiền của vào ngành giáo dục và đào tạo bao nhiêu, nhằm tạo ra được những chỉ tiêu “đẹp” như tỷ lệ phổ cập cấp I, cấp II, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ cử nhân v.v..., thì tăng trưởng kinh tế và thu nhập càng chậm lại bấy nhiêu.
Kết luận về tác động tiêu cực của việc tăng (về lượng) vốn nhân lực lên tăng trưởng thu nhập trong nghiên cứu nói trên sẽ không khó hiểu nếu ta liên hệ với chuyện đầu tư lãng phí trong xây dựng cơ bản hiện nay. Đầu tư lãng phí như vậy sẽ thường không mang đến tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Và về mặt này, chúng tôi cũng kết luận trong nghiên cứu của mình là tác động của biến số đầu tư lên tăng trưởng thu nhập tuy là tích cực nhưng không đáng kể về mặt thống kê (tức là tuy tăng đầu tư sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng thu nhập, nhưng sự tăng tốc này quá nhỏ về mặt thống kê, và, do đó, có thể coi tác động này là bằng 0). Đây là một bằng chứng nữa góp phần vạch ra chất lượng tăng trưởng đáng báo động ở Việt Nam mà báo chí gần đây liên tục đưa tin.
Trở lại qui hoạch trường đại học, cao đẳng đến năm 2020 nói trên, tình trạng phát triển tràn lan các trường đại học, cao đẳng trong tương lai trong khi điều kiện vật chất và nhân lực không theo kịp là một trong những biểu hiện rõ nét nhất của việc chạy theo thành tích và đầu tư theo phong trào trong ngành giáo dục.
Từ kết quả tính toán trên, quả thật rất đáng lo nếu các cơ quan hữu trách vẫn chỉ chú trọng vào việc phát triển số lượng tuyệt đối của nguồn nhân lực và không nhận thức được rằng chủ trương phát triển này không những không góp phần làm tăng mà còn thậm chí làm giảm tỷ lệ tăng trưởng chừng nào chất lượng giáo dục và đào tạo chưa trải qua một cuộc lột xác mới. Vì thế, thay vì đề ra qui hoạc phát triển đến năm 2020, có lẽ việc cần làm hơn và làm trước là đề ra một qui hoạch chấn hưng chất lượng giáo dục toàn diện với những giải pháp và lịch trình cụ thể.
Cũng nhân đây xin nói qua về tác động của các yếu tố khác, như dân số, thương mại, và FDI, lên tăng trưởng thu nhập. Những tác động này không nằm ngoài dự đoán và các kết quả nghiên cứu trước đây.
Cụ thể, tăng trưởng dân số có tác động tiêu cực lên tăng trưởng thu nhập. Còn thương mại (được đo bằng xuất khẩu hoặc xuất khẩu + nhập khẩu) thì không có tác động đáng kể lên tăng trưởng thu nhập, trong khi sự hiện diện của các doanh nghiệp có vốn FDI thì ảnh hưởng tích cực và đáng kể lên tốc độ tăng trưởng thu nhập.
Cuối cùng, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng giữa các tỉnh thành của Việt Nam đã có sự thu hẹp về chênh lệch thu nhập trong một thập kỷ qua, và đây là một điểm sáng của quá trình cải cách và phát triển kinh tế ở Việt Nam.
TS PHAN MINH NGỌC(Khoa Kinh
|